Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 tới đây sẽ thải loại 85% người lao động trực tiếp tại khu vực Châu Á, và hơn 90% người lao động ở khu vực Châu Âu, Mỹ. Đây là một nguy cơ vô cùng lớn cho an sinh xã hội. [23]
Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ có tác động lớn đối với
mọi ngành, đơn cử với ngành dệt may có thể nhận thấy là: Tạo cơ hội thay thế
công việc lặp đi lặp lại không cần kỹ năng, kinh nghiệm, công việc độc hại, dễ
gây tai nạn...bằng máy móc công nghệ mới; Giúp giải quyết những khâu yếu trong
chuỗi cung ứng dệt may của Việt Nam, tái cơ cấu lại ngành; Nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người
lao động; Nguy cơ đưa sản xuất về lại nước nhập khẩu tạo ra sức ép để tập trung
vào khai thác và phục vụ thị trường nội địa trên 90 triệu dân với thu nhập và
nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của Việt Nam; Tạo sức ép để đào tạo nâng cao
trình độ kỹ năng cho người lao động.
Nhưng cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 cũng tạo ra mặt trái,
nó làm gia tăng nguy cơ mất việc làm đối với một số ngành thông dụng lao động
như dệt may, da giày, đặc biệt là lao động có trình độ thấp và ở những công
đoạn dễ thay thế bằng máy móc.
Hàng chục triệu người có nguy cơ mất việc
Ngày 24/02/2017, tại Trường ĐH Công nghệ TP.HCM (HUTECH) đã
diễn ra Hội thảo quốc tế “Cách mạng công nghiệp 4.0 và ứng dụng tại các trường
Đại học, Cao đẳng Việt Nam” do Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam
tổ chức. Đại diện Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam có GS.TS. Trần
Hồng Quân - Chủ tịch, TSKH. Phan Quang Trung và GS.TS. Trần Xuân Nhị - đồng Phó
Chủ tịch Hiệp hội. Hội thảo cũng quy tụ nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu uy tín
đến từ các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước. TSKH. Phan Quang Trung - Phó
Chủ tịch Hiệp hội các Trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam cho biết: “Cuộc Cách
mạng Công nghiệp 4.0 có thể dẫn đến tình trạng bất bình đẳng ngày càng lớn, đặc
biệt là có nguy cơ phá vỡ thị trường lao động. Cùng với sự phát triển của hệ
thống thực ảo (Cyber Physical System - CPS), nó đã và đang tạo ra nhiều loại
robot có thể chiếm mất nhiều việc làm trước đây vốn chỉ dành cho con người”.
Năm 2016, McDonald’s tuyên bố sẽ xây mới thêm 25.000 nhà
hàng với cơ chế hoạt động hầu như bằng robot. Thay vì quy mô 10-20 nhân viên
như trước, nhà hàng mới sẽ chỉ cần 2-3 người để quản lý. Tháng 5/2016, Foxconn
cũng gây sốc khi khẳng định sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng
robot. Ngân hàng Anh Quốc còn đưa ra một dự báo đáng lo ngại hơn là sẽ có
khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc trong vòng 10-20 năm tới tại
riêng Anh và Mỹ. Con số này tương đương với 50% lực lượng lao động tại hai nước
này. Không chỉ đe dọa tới việc làm của nhân công trình độ thấp, CPS còn ảnh
hưởng lớn đến cả những người có bằng cấp (cao đẳng, đại học trở lên) [10].
Lao động “giản đơn” không còn cần thiết nữa
TS. Phạm Thị Ly (Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh) cung cấp
thông tin: Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2013, Mỹ có 4.762 trường đại
học, cao đẳng với dân số 319 triệu. Tương đương tỉ lệ 1 trường/67 nghìn dân.
Trong khi đó tại Việt Nam có 425 trường với 90 triệu dân, tỉ lệ 1 trường/212
nghìn dân. 1 số nước ASEAN như Malaysia, tỉ lệ này là 1 trường/55 nghìn dân.
Như vậy, tỉ lệ người vào đại học, cao đẳng trên tổng số dân ở độ tuổi 18-22 của
ta là rất thấp.
Không chỉ thế, những người có bằng đại học lẽ ra rất quý giá
nhưng lại có hàng ngàn cử nhân thất nghiệp. Trong khi đó, các doanh nghiệp vẫn
phàn nàn không có đủ nhân sự làm việc cho mình. Điều đó chứng tỏ có khoảng cách
giữa việc đào tạo của các trường đại học và những gì xã hội đòi hỏi. Theo đó,
cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra có thể nới rộng khoảng cách này bởi
chất xám sẽ ngày càng quan trọng. Lao động giản đơn sẽ không còn cần thiết nữa.
Điều này đặt ra thách thức vô cùng lớn với giáo dục nói chung và đào tạo đại
học nói riêng. Nếu không chuẩn bị từ bây giờ, trong tương lai thế hệ con cháu
của chúng ta, có nguy cơ bị thất nghiệp rất cao.
Chúng
ta cần làm gì để tồn tại trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0?
Mặc dù giáo dục Việt Nam liên tục cải tiến trong những năm
gần đây, nhưng chủ yếu vẫn đi theo phương pháp truyền thống đã tồn tại hàng
chục năm qua. Sinh viên tốt nghiệp ra trường còn rất yếu về việc tiếp thu và
vận dụng kiến thức, thiếu sót trầm trọng về tư duy và kỹ năng. Đó là hệ quả tất
yếu của việc giảng dạy thụ động, chỉ chú trọng cung cấp lý thuyết và đánh giá
chủ yếu dựa trên điểm số.
Cách tốt nhất lúc này là phải thay đổi hoàn toàn phương pháp
giáo dục, từ chỗ đào tạo những gì học thuật sẵn có, sang giảng dạy những kiến
thức và kỹ năng mà thị trường cần. Nếu chỉ tập trung vào các kỹ năng cụ thể,
nghề nghiệp cụ thể, thì con người mà chúng ta đào tạo ra sẽ không thể thích ứng
được với yêu cầu của tương lai khi ra trường. Những gì họ học được trong trường
sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu, không thể áp dụng được. Cho nên, các trường học
phải tập trung vào việc phát triển tư duy, trau dồi khả năng học hỏi suốt đời,
khả năng thích nghi với những yêu cầu của công việc.
Đặc biệt, nền Công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn
về cung - cầu lao động trên thế giới. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới diễn ra vào
năm 2016 tại Thụy Sĩ, các nhà kinh tế và khoa học đã cảnh báo, trong cuộc Cách
mạng Công nghiệp 4.0, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa
cung và cầu lao động, cũng như cơ cấu lao động. Nền kinh tế với trình độ tự
động hóa cao và có tính sáng tạo, đòi hỏi người lao động phải thích ứng nhanh
với sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa, bị thất nghiệp.
Trong một số lĩnh vực, theo dự báo, với sự xuất hiện của
Robot, số lượng nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Như vậy,
9/10 nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Một dự báo của Anh
cho thấy, thị trường lao động của Mỹ và Anh sẽ có khoảng 95 triệu lao động
truyền thống bị mất việc trong vòng 10-20 năm tới, tương đương 50% lực lượng
lao động tại hai nước này và ở các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam chắc
cũng sẽ có tình trạng tương tự. [16]
Tại khu vực ASEAN, việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC) giúp thị trường lao động trong nội khối sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc
làm cho từng quốc gia thành viên. Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đồng
đều, nên hiện nay, lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu
di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia và Thái Lan. Còn lại, hầu hết các
lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc
không có kỹ năng. Khảo sát của tổ chức Lao động Quốc tế tại 10 quốc gia ASEAN
cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình
thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng trước sự ra đời của AEC.
[22, 10]
Một số vấn đề đặt ra đối với lao động Việt Nam
Về lĩnh vực giải quyết việc làm: Do lao động được thay thế
bởi tự động hóa, robot thông mình, do vậy nó sẽ tác động trực tiếp đến các việc
làm của các ngành mà Việt Nam đang có thế mạnh về lao động nhưng kỹ năng thấp
như: dệt may, giày dép gia công, lắp ráp. Một báo cáo của Tổ chức Lao động quốc
tế ILO công bố tháng 7/2016 cho thấy Việt Nam có đến 86% lao động trong các
ngành dệt may và giày dép ở nước ta có nguy cao mất việc dưới tác động của
những đột phá về công nghệ. Dệt may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc
làm cho nhiều lao động, trong đó có nhiều lao động ít kỹ năng, nhiều lao động
nữ và một số không còn trẻ. Đây là đối tượng lao động có trình độ tay nghề và
chuyên môn còn hạn chế, khó thích ứng linh hoạt với môi trường công việc mới
vượt ra khỏi ngành, lĩnh vực có tính chất cố định, dẫn đến một quá trình điểu
chỉnh rất khó khăn và có thể làm đảo ngược quá trình chuyển dịch lao động ra
khỏi nông nghiệp, cản trở quá trình tăng tỷ trọng của khu vực chính thức trong
nền kinh tế trong trường hợp nhân công không có việc để làm. Mặt khác, trong xu
thế phát triển của kinh tế tri thức, nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn
giỏi, có năng lực sáng tạo mới là lợi thế. Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân
lực của Việt Nam còn nhiều hạn chế, đây cũng là một thách thức không nhỏ để
nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ và ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới ở
các quy mô doanh nghiệp ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế trong điều kiện xuất
phát điểm phát triển của Việt Nam còn thấp so với nhiều nước
Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thu hẹp khoảng cách phát
triển trong quá trình hội nhập quốc tế. Đặc biệt, nguồn lao động trẻ dồi dào là
lợi thế lớn với Việt Nam, bởi đây là lực lượng có khả năng hấp thụ tốt nhất về
khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, trong nền Công nghiệp 4.0 với sự mở rộng ứng
dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, điều khiển, tự động hóa, thì Việt
Nam đứng trước nhiều vấn đề về chất lượng nguồn nhân lực. Cụ thể:
Một là, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn thấp:
Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại hai cách tính khác nhau về lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật, bao gồm từ đào tạo dưới 1 năm và từ trình độ sơ
cấp trở lên. Trong khi đó, theo cách tính của Tổng cục Thống kê, lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật là lao động có chuyên môn và có chứng chỉ trở lên.
Với cách tính của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2015 cả nước có
28,05 triệu người có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chiếm 51,64% tổng lực lượng
lao động. Vậy trên thực tế, theo cách tính của Tổng cục Thống kê, số người có
trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ có 10,56 triệu người, chiếm tỷ lệ thấp trong
tổng lực lượng lao động (20,78%).
Năm 2015, theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global
Competitiveness)[1],
Việt Nam được xếp hạng chung là 56, nhưng các chỉ số liên quan đến đổi mới sáng
tạo lại thấp hơn nhiều. Cụ thể: Năng lực hấp thụ công nghệ xếp hạng 121; Mức độ
phức tạp của quy trình sản xuất: 101; Chất lượng của các tổ chức nghiên cứu
khoa học: 95; Giáo dục và đào tạo ở cấp sau phổ thông: 95.
Mới đây, Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global
Competitiveness Report) 2016 - 2017 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thông
báo các tiêu chí đánh giá của WEF được chia thành 3 nhóm chính gồm: Yêu cầu căn
bản (gồm kinh tế vĩ mô, giáo dục cơ bản - y tế, cơ sở hạ tầng, thể chế); Các
yếu tố nâng cao hiệu suất (gồm giáo dục và đào tạo bậc cao, độ hiệu quả trên
thị trường lao động, sự phát triển của hệ thống tài chính, trình độ công nghệ)
và các yếu tố về sự tinh vi - đột phá của hệ thống doanh nghiệp (DN). Trong 3
nhóm này, Việt Nam được chấm điểm cao nhất ở Yêu cầu căn bản, với 4,5 điểm, xếp
thứ 73. Một số tiêu chí khác cũng có sự cải thiện như thể chế, cơ sở hạ tầng,
trình độ công nghệ hay giáo dục và đào tạo bậc cao.WEF đánh giá các nước trên
thang điểm 7. Theo đó, điểm năng lực cạnh tranh (GCI) của Việt Nam năm nay được
4,31 - nhỉnh hơn so với 4,3 năm ngoái. Theo đó, năm 2016 Việt Nam xếp ở vị trí
60/138 nền kinh tế, so với vị trí 56/140 năm 2015. Ở khu vực Đông Nam Á, Việt
Nam đứng thứ 6, sau Singapore (2), Malaysia (25), Thái Lan (34), Indonesia (41)
và Philippines (57). Trừ Singapore, các nước này đều tụt hạng so với năm ngoái.
Có điểm số nhỉnh hơn năm ngoái nhưng Việt Nam lại xếp vị trí 60/138 nền kinh tế
được WEF đánh giá, so với vị trí 56/140 năm 2015. Tuy tụt hạng song xu hướng
chung là Việt Nam vẫn đang ngày càng cải thiện năng lực cạnh tranh.
Hai là, năng suất lao động thấp: Theo Báo cáo Năng suất lao
động Việt Nam năm 2015, năng suất lao động của Việt Nam theo giá hiện hành đạt
3.660 USD, chỉ bằng 4,4% của Singapore; 17,4% của Malaysia; 35,2% của Thái Lan;
48,5% của Phillippines và 48,8% của Indonesia. Nói cách khác, năm 2015, một
người Singapore có năng suất làm việc bằng gần 23 người Việt Nam, một người
Malaysia bằng gần 06 người Việt Nam, một người Thái Lan bằng gần 03 người Việt
Nam và một người Philippines hay Indonesia cũng vẫn bằng hơn 02 người Việt Nam.
Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2005 - 2015, mặc dù lao động làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất. Cụ
thể, nông nghiệp giảm từ 55,09% năm 2005, xuống 45,19% năm 2015; lần lượt công
nghiệp tăng từ 17,59 lên 21,78%; dịch vụ tăng từ 27,32% lên 33,03%. Cơ cấu này
phản ánh cấu trúc “nông nghiệp” của nền kinh tế Việt Nam.
Ba là, tay nghề và các kỹ năng mềm khác còn yếu: Theo số
liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến quý IV/2016, cả nước có
1.110.000 người trong độ tuổi lao động thất nghiệp, trong đó có 471.000 người
có chuyên môn kỹ thuật (chiếm 42,43%). Riêng tại 64 trung tâm dịch vụ việc làm
do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã quản lý tổ chức được 336 phiên
giao dịch việc làm với 780.000 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm,
nhưng mới có 242.000 lượt người nhận được việc làm.
Một phần nguyên nhân là do cơ cấu cung - cầu của thị trường
lao động bất hợp lý nhưng một phần không nhỏ cũng là do lao động chưa đáp ứng
được yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Ngân hàng Phát triển Châu Á[2]
(ADB) đưa ra bảng xếp hạng chỉ số năng suất sáng tạo năm 2014 của lao động ở 24
nước Châu Á, trong đó Việt Nam xếp thứ 16/24, thậm chí thấp hơn cả Lào và
Indonesia.
[1] Báo cáo cạnh tranh toàn cầu là một bản tin hàng năm được xuất bản
bởi Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF - World Economic Forum), phát hành lần đầu
vào năm 1979. Bản báo cáo năm 2016 – 2017 bao gồm 138 nền kinh tế chính và nổi
bật. Báo cáo này “nhằm đánh giá khả năng cung cấp mức độ thịnh vượng cao hay
thấp đối với dân chúng ở mỗi quốc gia, trong đó có công bố “chỉ số cạnh tranh
quốc gia” (GCI - Global Competitiveness Index) nhằm đo lường khuynh hướng của
các thế chế, chính sách, những nhân tố tạo thành trạng thái hiện thời &
những mức giới hạn về trạng thái thịnh vượng kinh tế”.
[2] Ngân hàng Phát triển châu Á (tiếng Anh: The Asian
Development Bank; viết tắt: ADB) là một thể chế tài chính đa phương cung cấp
các khoảng tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp các nước châu Á xóa đói giảm
nghèo, phát triển kinh tế-xã hội. ADB được thành lập vào năm 1966, có trụ sở
chính tại Manila, và chủ tịch là một người Nhật Bản.
0 comments:
Đăng nhận xét