Bản chất tổ chức bộ máy và hình thức của nhà nước phong kiến trong lịch sử
Nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở của sự
sụp đổ của xã hội chiếm hữu nô lệ, ở một số quốc gia nhà nước phong kiến là
kiểu nhà nước đầu tiên, ví dụ như Việt Nam , Triều Tiên...
Bộ máy nhà nước phong kiến |
1. Bản chất của nhà nước phong kiến
Vào giai đoạn cuối của chế độ chiếm hữu nô
lệ, quan hệ sản xuất dựa trên lao động của nô lệ bắt đầu kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất xã hội, mâu thuẫn giữa giai cấp nô lệ với giai cấp chủ
nô ngày càng trở nên gay gắt. Các cuộc khởi nghĩa của nô lệ đã liên tiếp nổ ra.
Trong xã hội dần dần hình thành một bộ phận giai cấp mới - giai cấp lệ nông.
Chế độ lệ nông phát triển và hình thái kinh tế xã hội phong kiến đã thay thế
cho hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ.
Nhà nước phong kiến - kiểu
nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế xã hội phong kiến - là kiểu nhà nước
tiến bộ hơn so với nhà nước chiếm hữu nô lệ.
Nhà nước phong kiến được xây dựng trên cơ sở
của phương thức sản xuất phong kiến mà nền tảng là nền kinh tế dựa trên sở hữu
của giai cấp địa chủ phong kiến đối với
ruộng đất cũng như một số tư liệu sản xuất khác, và sở hữu cá thể của của nông
dân trong sự lệ thuộc vào giai cấp địa chủ.
Ở những nhà nước phong kiến hình thành trên
nền tảng công xã nông thôn thì sở hữu đất đai có những đặc thù riêng. Bằng các
chính sách phong kiến, đặc biệt là các chính sách thuế ruộng các chính quyền
phong kiến bắt đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của nhà nước đối với
ruộng đất của công xã, nhưng chấp nhận và tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất trên
thực tế của công xã.
Xã hội phong kiến có kết cấu giai cấp khá
phức tạp. Trong xã hội có hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ. Đặc trưng
của chế độ phong kiến là kết cấu thứ bậc trong giai cấp địa chủ. Ở các nước
phong kiến phương Tây, các đẳng cấp như: công, hầu, bá, tử, nam đều gắn với
những đặc quyền, đặc lợi về sở hữu ruộng đất. Trong hệ thống thứ bậc phong
kiến, đứng ở vị trí cao nhất là vua, sau kế đến là các tước hiệu quý tộc từ cao
đến thấp, ví dụ như ở nước ta, tầng lớp thống trị có các “thổ hào”, “hào
trưởng”, “cự tộc’, “lệnh tộc” - là tầng lớp giàu có và quyền thế ở các địa
phương. Điều này được minh chứng qua câu nói của Trần Khánh Dư, một tướng soái
của nhà Trần: “Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt nuôi chim ưng thì có
gì là lạ”1. Giai cấp nông dân sống trên các lãnh địa
của phong kiến, lao động trên ruộng đất của phong kiến, về địa vị xã hội họ
được tự do hơn nô lệ, địa chủ không có quyền giết nông dân, họ có kinh tế cá
thể, có quyền sở hữu các tư liệu sản
xuất nhỏ và tư liệu sinh hoạt. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu cảnh bóc lột lao
động nặng nề bởi chế độ sưu cao, thuế nặng dưới các hình thức thu tô của phong
kiến .
Ngoài hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông
dân, xã hội phong kiến còn có những tầng lớp khác nhau: tăng lữ, thợ thủ công,
thương nhân, nô tỳ.
Tầng lớp nô tỳ chủ yếu phục vụ trong gia
đình, không có vị trí đáng kể trong sản xuất.
Cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp phức tạp
trong xã hội phong kiến đã quy định bản chất của nhà nước phong kiến. Nhà nước
phong kiến duy trì địa vị kinh tế của giai cấp địa chủ phong kiến và thực hiện
sự thống trị đối với toàn xã hội. Đó là “một bộ máy để tập hợp và thu phục rất
đông người, bắt họ phải tuân theo những luật pháp và quy chế nhất định; về căn
bản tất cả các luật pháp đó chung quy chỉ có một mục đích duy nhất: duy trì
quyền của chúa phong kiến với nông nô”1
2. Chức năng của nhà nước phong kiến
Bản chất của nhà nước phong kiến được quy
định bởi các chức năng đối nội và đối ngoại của nó
Nhà nước phong kiến có các chức năng đối nội
cơ bản sau:
a. Chức năng bảo vệ và phát triển chế độ sở hữu phong kiến, duy trì sự bóc lột của phong kiến đối với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Trong phương thức sản xuất phong kiến nông
nghiệp là cơ sở tồn tại cho cả xã hội vì thế ruộng đất là tư liệu sản xuất quan
trọng và là chủ yếu. Chính vì thế các nhà nước phong kiến ra sức củng cố và bảo
vệ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Bằng nhiều hình thức khác nhau, nhà nước
phong kiến bảo vệ sự độc quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, phong
kiến. Ở phương Tây, nhà nước quy định chặt chẽ quyền sở hữu tư nhân của các
lãnh chúa phong kiến về ruộng đất thông qua chế độ đẳng cấp. Ở phương Đông, sở
hữu tối cao về ruộng đất thuộc về nhà nước, nhưng thực chất quyền sở hữu ruộng
đất nằm trong tay giai cấp phong kiến mà đứng đầu là nhà vua.
Các nhà nước phong kiến đều sử dụng pháp luật
để củng cố và bảo vệ quyền sở hữu về ruộng đất của giai cấp phong kiến. Thông
qua pháp luật, nhà nước phong kiến trói chặt người nông dân vào ruộng đất của
địa chủ, phong kiến. Nông dân ở các nước đều phải chịu cảnh lao dịch nặng
nề qua các hình thức tô thuế do giai cấp
phong kiến đặt ra (tô tiền, tô hiện vật, tô lao dịch).
Nhà nước phong kiến |
b. Chức năng đàn áp sự chống đối của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Do sự áp bức, bóc lột hà khắc của giai cấp
địa chủ phong kiến đối với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động, vì thế
trong chế độ phong kiến thường xuyên nổ ra các cuộc khởi nghĩa của nông dân và
nhân dân lao động chống lại ách áp bức của giai cấp phong kiến. Để duy trì địa
vị thống trị của mình, nhà nước phong kiến đều đàn áp dã man các cuộc khởi
nghĩa của nông dân và nhân dân lao động bằng bạo lực quân sự. Trong giai đoạn
đầu của chế độ phong kiến ( giai đoạn nhà nước phong kiến phân quyền cát cứ),
các lãnh chúa có quân đội riêng thực hiện chức năng cảnh sát và xét xử. Các
lãnh chúa có quyền đánh đập, tra tấn nông dân trong lãnh địa của mình trong
trường hợp họ chống đối. Trong trường hợp cần thiết, nhà nước phong kiến và các
lãnh chúa cùng phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau trong việc đàn áp sự phản kháng của
nông dân.
Chuyển sang thời kỳ nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền bộ máy đàn áp của nhà nước phong kiến càng trở nên phát triển,
chức năng này càng được nhà nước phong kiến thực hiện triệt để hơn, ví dụ các
cuộc khởi nghĩa của nông dân như: khởi nghĩa Xắc xông ở Pháp, khởi nghĩa Sơn
Thành, Hoàng Sào ở Trung Quốc, khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu ở Việt Nam đều bị
nhà nước phong kiến ở các nước đó đàn áp dã man.
c. Chức năng đàn áp tư tưởng.
Cùng với việc thực hiện các hoạt động bạo lực
vật chất để duy trì địa vị thống trị của mình, nhà nước phong kiến còn đàn áp
và nô dịch nông dân và nhân dân lao động về mặt tư tưởng, áp đặt hệ tư tưởng
của giai cấp phong kiến cho toàn xã hội. Các nhà nước phong kiến dù phương Đông
hay phương Tây, nhìn chung đều sử dụng hệ tư tưởng tôn giáo và tổ chức tôn giáo
phục vụ cho mục đích nô dịch tư tưởng.
Ở châu Âu thời kỳ trung cổ, giáo hội và nững
quy tắc của nó đã chi phối toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần của xã hội.
Nhà nước phong kiến đã kết hợp với giáo hội, lợi dụng tôn giáo sáp nhập quyền
lực tôn giáo với quyền lực nhà nước để nô dịch nhân dân lao động. Nhà nước
phong kiến cho phép toà án giáo hội can thiệp vào cả những lĩnh vực không thuộc
phạm vi tôn giáo, sử dụng sức mạnh bạo lực để đàn áp, bức hại những người có tư
tưởng tiến bộ.
Ở phương Đông, các nước như Trung Quốc, Việt Nam ... có thời kỳ Phật giáo được
coi là quốc giáo. Ở những thời kỳ này tầng lớp tăng lữ được coi là tầng lớp trí
thức, được tham gia vào công việc chính trị, có những người nắm các trọng trách
trong bộ máy nhà nước, như nhà sư Từ Đạo Hạnh và sư Thảo Đường thời Lý.
Nhìn chung, nhà nước phong kiến đã kết hợp
giữa thần quyền và thế quyền để nô dịch nhân dân lao động về mặt tư tưởng,
tuyên truyền và áp đặt cho nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác hệ
tư tưởng duy tâm mang đậm màu sắc tôn giáo.
Ngoài ra, nhà nước phong kiến còn tiến hành
những hoạt động công cộng nhằm phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội như: ban
hành chính sách quản lý đất đai, chính sách tiền tệ, làm đường, làm thuỷ lợi...
Tuy nhiên, hoạt động này chưa thường xuyên và rộng khắp trong các nhà nước
phong kiến mà chỉ xuất hiện ở từng quốc gia cụ thể vào từng thời kỳ cụ thể.
Nhà nước phong kiến có các chức năng đối
ngoại sau:
a. Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược.
Chiến tranh được nhà nước phong kiến sử dụng
với tính chất là phương tiện phổ biến để giải quyết các mâu thuẫn, mở rộng lãnh
thổ, tăng cường phạm vi ảnh hưởng của nhà nước mình ra bên ngoài. Trong thời kỳ
cát cứ, mỗi lãnh chúa phong kiến có quân đội riêng, có quyền tuyên chiến với
các lãnh chúa phong kiến khác ở trong và ngoài nước (trừ tuyên chiến với vua
hoặc quốc vương của mình). Khi vua hoặc quốc vương của mình tiến hành chiến
tranh, lãnh chúa phong kiến có nghĩa vụ phải mang quân đến chi viện.
Tới thời kỳ nhà nước quân chủ trung ương tập
quyền, chức năng này được các nhà nước phong kiến tiến hành thường xuyên hơn
nhằm phục vụ cho lợi ích quốc gia, điều này dẫn đến tình trạng các nhà nước
phong kiến thường xuyên ở trong tình trạng chiến tranh.
b.Chức năng phòng thủ chống xâm lược.
Các nhà nước phong kiến dù lớn hay nhỏ đều
luôn đứng trước nguy cơ bị các nhà nước khác xâm lược. Vì thế, cùng với việc
tiến hành chiến tranh xâm lược, các nhà nước phong kiến đều thực hiện các công
việc liên quan đến bảo vệ đất nước như: xây dựng pháo đài, thành luỹ, xây dựng
quân đội thường trực... để phòng thủ đất nước.
Để bảo vệ quyền, lợi ích của quốc gia, nhà
nước phong kiến còn thực hiện nhiều hình thức và chính sách ngoại giao với các
quốc gia láng giềng như chính sách thương mại, đối ngoại hoà bình...
3. Bộ máy nhà nước phong kiến
So với bộ máy nhà nước chủ nô, bộ máy nhà
nước phong kiến đã phát triển hơn một bước, đặc biệt là ở giai đoạn nhà nước
quân chủ trung ương tập quyền.
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến phân
quyền cát cứ, chính quyền trung ương của nhà nước phong kiến yếu, quyền lực
thực sự nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến. Các lãnh chúa có quân đội riêng
và toà án riêng, toàn quyền trong lãnh địa của mình.
Tới giai đoạn nhà nước quân chủ trung ương
tập quyền, bộ máy nhà nước phong kiến được tổ chức tương đối chặt chẽ từ trung
ương xuống đến địa phương. Ở trung ương, đứng đầu triều đình là vua (hoặc quốc
vương), giúp việc cho vua có các cơ quan với các chức vụ quan lại khác nhau
giúp vua thực hiện sự cai trị. Ở địa phương, cách tổ chức các cơ quan nhà nước
còn đơn giản, hầu như chưa có sự phân biệt giữa chức năng hành pháp và tư pháp,
đội ngũ quan lại địa phương cũng do vua bổ nhiệm.
Trong nhà nước phong kiến, các cơ quan: quân
đội, cảnh sát, toà án vẫn là bộ phận chủ đạo trong bộ máy nhà nước.
4. Hình thức nhà nước phong kiến
Hình thức chính thể phổ biến trong nhà nước
phong kiến là quân chủ, lịch sử tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến cho thấy
sự tồn tại và phát triển của chính thể quân chủ với những biểu hiện cụ thể:
quân chủ phân quyền cát cứ, quân chủ trung ương tập quyền, quân chủ đại diện
đẳng cấp và cộng hoà phong kiến.
Trong hình thức nhà nước quân chủ phân quyền
cát cứ thì quyền lực nhà nước bị phân tán, vua hoặc quốc vương không có toàn
quyền, chỉ là “đấng thiêng liêng”, quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh
chúa phong kiến.
Trong hình thức quân chủ đại diện đẳng cấp,
quyền lực nhà nước trung ương được tăng cường trên cơ sở của sự ủng hộ của các
lãnh chúa phong kiến vừa và nhỏ, cũng như tầng lớp cư dân thành thị. Ở hình
thức này, bên cạnh vua hoặc quốc vương còn có cơ quan đại diện đẳng cấp, ví dụ
như: Nghị viện ở Anh, Hội nghị quốc dân ở Nga, Hội nghị tam cấp ở Pháp. Cơ quan
đại diện này có thẩm quyền hạn chế trong
lĩnh vực thuế và tài chính. Sự hiện diện của cơ quan này cũng làm hạn chế quyền
lực của nhà vua, vì thế khi quyền lực của vua được tăng cường mạnh lên thì vua
thường không tham dự hội nghị của cơ quan đại diện đẳng cấp nữa và tìm cách
loại bỏ nó.
Chính thể quân chủ trung ương tập quyền có
đặc điểm là quyền lực nhà nước tập trung vào tay vua hoặc quốc vương. Vua nắm
toàn quyền nhưng trong hoạt động điều hành vua dựa vào triều đình và bộ máy
quan lại giúp việc từ trung ương xuống đến địa phương. Toàn bộ bộ máy nhà nước
từ trung ương xuống đến địa phương tạo thành một thể thống nhất.
Hình thức cộng hoà phong kiến tồn tại ở một
số thành phố châu Âu (Phơlôrenxơ của Italia, Nốpgôrớt và Psơcốp của Nga...) sau
khi giành được sự tự quản bằng các con đường khác nhau như: bỏ tiền ra mua sự
tự trị từ nhà nước phong kiến, đấu tranh vũ trang...Quyền lực ở các thành phố
đó tập trung trong tay giới quý tộc thành thị tập hợp trong Hội đồng thành phố
được lập trên nguyên tắc bầu ra, chịu trách nhiệm điều hành các công việc và
quan hệ của thành phố. Chính ở các thành phố này đã sớm hình thành các quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ở các nước châu Âu , tồn tại cả 4 hình thức
chính thể trên. Ở các nước phương Đông như Việt Nam . Trung Quốc chỉ tồn tại hình
thức chính thể quân chủ phân quyền cát cứ và quân chủ trung ương tập quyền. Đặc
biệt ở Việt Nam , dưới sự tác động của nhu cầu
trị thuỷ và chống giặc ngoại xâm, nhà nước trung ương tập quyền đã hình thành
rất sớm.
1 Lịch sử
Việt Nam . NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội 1971, tr. 226.
1 V.I. Lênin.
Toàn tập. Tập 39. NXB Tiến bộ. Matxcơva,
1979. Tr87
Tham khảo thêm:
-
- Phương pháp luận và nghiên cứu khoa học của lý luận
-
- Những quan điểm phi Mác xít về nguồn gốc của nhà nước
-
- Tìm hiểu về nguồn gốc của nhà nước
-
- Bản chất của nhà nước là gì?
-
- VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP
-
- Các kiểu nhà nước trong lịch sử
-
- Chức năng của nhà nước
-
- Hình thức nhà nước là gì?
-
- Bản chất tổ chức bộ máy và hình thức của nhà nước
-
- Sự ra đời bản chất và sự phát triển của nhà nước
-
- Chức năng của nhà nước tư sản trong lịch sử
-
- Tìm hiểu về tổ chức bộ máy nhà nước tư sản
-
- Hình thức nhà nước Tư sản trong lịch sử
-
- Tìm hiểu về sự ra đời của nhà nước Xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Quy luật phát triển của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về hình thức Nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Những chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về bộ máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa
-
- Các bộ phần cấu thành của Bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
-
- Vai trò của nhà nước trong hệ thống chinh trị xã hội
-
- Vị trí và vai trò của Đảng cộng sản trong hệ thống chính trị
-
- Tìm hiểu các các tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị
-
- Những vấn đề về đổi mới hệ thống chính trị
-
- Tìm hiểu về nguồn gốc của pháp luật
-
- Bản chất của pháp luật là gì?
-
- Tìm hiểu các thuộc tính của pháp luật
-
- Cùng tìm hiểu về các kiểu pháp luật
-
- Cùng tìm hiểu về các hình thức của pháp luật
-
- Cùng tìm hiểu về pháp luật chủ nô
-
- Tìm hiểu về pháp luật thời phong kiến
-
- Tìm hiểu về hình thức pháp luật tư sản
-
- Cùng tìm hiểu về bản chất pháp luật tư sản
0 comments:
Đăng nhận xét