Tìm hiểu về bản chất chức năng và hình thức nhà nước chủ nô trong lịch sử
Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên trong
lịch sử xã hội loài người, ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế độ cộng sản
nguyên thuỷ. Là hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực thống trị của giai cấp
chủ nô.
1. Bản chất của nhà nước chủ nô
Xem xét bản chất của nhà nước chủ nô phải
xuất phát từ cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của xã hội chiếm hữu nô lệ. Cơ sở
kinh tế của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ. Quan hệ này
dựa trên cơ sở của sự chiếm hữu tư nhân của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và
người lao động là nô lệ.
Nô lệ thành phần đông đảo của các chủ nô |
Cơ sở xã hội của xã hội chiếm hữu nô lệ do
chính cơ sở kinh tế quy định. Vì thế, kết cấu giai cấp của xã hội gồm có hai
giai cấp chính là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp chủ nô là giai
cấp thống trị mặc dù chỉ là thiểu số trong xã hội nhưng nắm hầu hết tư liệu sản
xuất của xã hội và cả bản thân người lao động là nô lệ. Giai cấp nô lệ mặc dù
chiếm đại đa số trong xã hội nhưng do không có tư liệu sản xuất trong tay và
không làm chủ ngay cả chính bản thân mình nên họ hoàn toàn phụ thuộc vào giai
cấp chủ nô cả về thể xác và tinh thần.
Nô lệ không được coi là người mà chỉ là
“công cụ biết nói” của chủ nô, chủ nô có toàn quyền đối với nô lệ với vai trò
là một chủ sở hữu đích thực, họ có thể bán nô lệ, cho, tặng nô lệ... nô lệ thực
chất chỉ là một thứ tài sản của chủ nô. Bên cạnh hai giai cấp chính là chủ nô
và nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ còn những giai cấp và tầng lớp xã hội khác
như: nông dân tư hữu, những người thợ thủ công, những người buôn bán...Những
người này về thân phận địa vị của họ trong xã hội không thấp kém như nô lệ
nhưng so với giai cấp chủ nô họ có địa vị rất thấp và cũng chịu sự chi phối của
giai cấp chủ nô.
Cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp xã hội đã
quy định bản chất của nhà nước chủ nô. Dưới góc độ bản chất giai cấp, nhà nước
chủ nô là công cụ bạo lực để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô,
duy trì sự thống trị mọi mặt của giai cấp chủ nô đối với nô lệ và các tầng lớp
nhân dân lao động trong xã hội, duy trì tình trạng bất bình đẳng giữa chủ nô
với nô lệ với các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Nghiên cứu chế độ nô lệ trên thế giới, C.Mác
và Ph. Ăngghen đã căn cứ vào những đặc điểm cụ thể để phân biệt chế độ nô lệ cổ
điển và chế độ nô lệ phương đông cổ đại.
Nô lệ họ không được coi là người, giống như món hàng có thể mua đi bán lại |
Chế độ nô lệ cổ điển (hay còn gọi là chế độ nô lệ Hy - La) được
đặc trưng bởi tính điển hình của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Trong
loại hình xã hội này nô lệ chiếm số lượng đông đảo trong xã hội và là lực lượng
lao động chủ yếu của xã hội, mà thực chất là cho chủ nô. Sự bóc lột của chủ nô
đối với nô lệ là phổ biến và điển hình.
Chế độ nô lệ phương Đông cổ đại hay còn gọi là chế độ nô lệ gia trưởng là
loại hình xã hội còn duy trì nhiều tàn dư của chế độ công xã thị tộc. Trong chế
độ này, nô lệ không phải là lực lượng lao động chính, sản xuất ra của cải, hàng
hoá cho chủ nô mà hầu hết làm công việc trong nhà. Lực lượng lao động chính của
xã hội là các thành viên công xã nông thôn (nông nô), về địa vị xã hội, họ tự
do hơn so với nô lệ, tuy nhiên họ vẫn chịu sự áp bức, bóc lột của chủ nô.
Tuy nhiên, bên cạnh tính giai cấp, trong một
chừng mực nhất định nhà nước chủ nô cũng có một vai trò xã hội nhất định, các
nhà nước chủ nô ở các mức độ khác nhau đã tiến hành những hoạt động mang tính
xã hội như: hoạt động làm thuỷ lợi ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương đông,
xây dựng và bảo vệ các công trình công cộng, hay hoạt động phát triển kinh tế,
thương mại ở Hy lạp...
Các đặc trưng của mỗi loại hình chế độ chiếm
hữu nô lệ trên được phản ánh trong chức năng, bộ máy, hình thức của các nhà
nước chủ nô tương ứng. Tuy có những nét riêng biệt khác nhau, nhưng ở góc độ
chung nhất các nhà nước chiếm hữu nô lệ đều là công cụ chuyên chính của giai
cấp chủ nô, bảo đảm sự thống trị của giai cấp chủ nô, đồng thời nó còn là tổ
chức để tự vệ, tổ chức các công trình công cộng.
Mô hình của chủ nô |
2. Chức năng của nhà nước chủ nô
Bản chất
của nhà nước chủ nô trước hết được thể hiện ở các chức năng đối nội và
đối ngoại cơ bản của nó.
Các chức năng đối nội cơ bản của nhà nước chủ
nô bao gồm:
a. Chức năng củng cố và bảo vệ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ
Đây là một trong những chức năng đặc trưng,
cơ bản nhất của nhà nước chủ nô, thể hiện rõ nét bản chất giai cấp của nhà nước
chủ nô. Nhà nước chủ nô bằng pháp luật không chỉ quy định giai cấp chủ nô có
toàn quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, mà đối với người nô lệ giai cấp chủ nô
cũng toàn quyền sở hữu. Thông qua pháp luật nhà nước chủ nô hợp pháp hoá quyền
lực vô hạn của chủ nô đối với nô lệ, cho pháp chủ nô công khai bóc lột, cưỡng
bức lao động tàn nhẫn đối với nô lệ, đồng thời quy định những biện pháp trừng
trị nghiêm khắc đối với các hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của chủ nô.
b. Chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, không chỉ giai
cấp nô lệ chịu sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của giai cấp chủ nô mà các tầng lớp
nhân dân lao động khác cũng chịu sự áp bức và bóc lột không kém phần tàn bạo từ
phía giai cấp chủ nô. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, vì thế, lịch sử tồn
tại và phát triển của nhà nước chủ nô gắn liền với các cuộc khởi nghĩa liên
tiếp của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Để bảo vệ địa vị thống
trị cùng với các đặc quyền, đặc lợi của giai cấp chủ nô, nhà nước chủ nô đã ra
sức đàn áp các cuộc khởi nghĩa bằng bạo lực quân sự. Đây cũng là một chức năng
được nhà nước chủ nô hết sức chú trọng.
c. Chức năng đàn áp về mặt tư tưởng
Bên cạnh việc sử dụng bạo lực quân sự để đàn
áp giai cấp nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nhà nước chủ nô còn
thực hiện sự nô dịch về mặt tư tưởng đối với nô lệ và nhân dân lao động. Các
nhà nước chủ nô đều sử dụng tôn giáo như một công cụ hữu hiệu cho sự nô dịch về
mặt tư tư tưởng. Bởi lẽ tôn giáo đã đã giải thích được đặc quyền cũng như địa vị xã hội của giai cấp thống trị. Các
hành vi xâm hại tới tôn giáo cũng được nhà nước chủ nô thông qua pháp luật
trừng phạt nghiêm khắc.
Các chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước chủ nô bao gồm:
a. Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược
Đây là một trong những chức năng đối ngoại cơ
bản của nhà nước chủ nô. Điều kiện cho sự tồn tại của nhà nước chủ nô gắn liền
với chế độ nô lệ, vì thế các nhà nước chủ nô hết sức coi trọng hoạt động tiến
hành chiến tranh xâm lược để mở rộng lãnh thổ và tăng cường số nô lệ của quốc
gia. Chế độ nô lệ càng phát triển thì chiến tranh càng tàn khốc. Sau khi dành
được thắng lợi các nhà nước chủ nô thường tiến hành các hoạt động xây dựnh
thành luỹ, bố trí quân đội ở các nước bại trận và thi hành chính sách bóc lột
hà khắc với nhân dân các nước thất bại. Lịch sử nhà nước chủ nô đã có những đế
quốc hùng mạnh nhờ việc thi hành chính sách mở rộng chiến tranh xâm lược mà
tiêu biểu là đế quốc La mã.
b. Chức năng phòng thủ chống xâm lược
Cùng với việc thực hiện hoạt động xâm lược,
các nhà nước chủ nô cũng hết sức coi trọng hoạt động phòng thủ chống xâm lược.
Thực tế cho thấy rằng bất kỳ nhà nước chủ nô nào cũng đứng trước nguy cơ bị
nước khác xâm lược. Để thực hiện chức năng này nhà nước chủ nô tiến hành các
hoạt động như: tổ chức lực lượng quân đội, xây dựng các thành luỹ, pháo đài,
chuẩn bị cơ sở vật chất..., tiến hành hoạt động quân sự khi cần thiết.
Ngoài các chức năng đã nêu ở trên, nhà nước
chủ nô trong một chừng mực nhất định, tuỳ vào thời điểm cụ thể đã tiến hành
những cong việc chung bắt nguồn từ sự tồn tại của xã hội như: xây dựng các công
trình công cộng, đường sá, tổ chức đắp đê chống lụt ..., hoặc các hoạt động
bang giao hoà bình, tiến hành buôn bán với các nước khác.
3. Bộ máy nhà nước chủ nô
Chủ thể tiến hành các chức năng của nhà nước
chủ nô chính là bộ máy của nhà nước chủ nô, vì thế bộ máy nhà nước chủ nô được
xây dựng phù hợp cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Ở các nhà nước
chủ nô khác nhau do hình thức chính thể khác nhau, chức năng cụ thể của nhà
nước cũng có những biểu hiện khác nhau, do đó bộ máy nhà nước trong từng quốc
gia chiếm hữu nô lệ cũng có những điểm khác biệt. Tuy nhiên, việc thiết lập bộ
máy nhà nước chủ nô tựu chung lại đều để thực hiện các chức năng đối nội và đối
ngoại cơ bản của nhà nước, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô,
duy trì trật tự xã hội trên cơ sở của chế độ chiếm hữu nô lệ.
Nô lệ phục vụ cho chủ nô |
Ở giai đoạn đầu, bộ máy nhà nước chủ nô còn
đơn giản và mang đậm dấu ấn của của hệ thống cơ quan quản lý xã hội thị tộc -
bộ lạc. Giữa các cơ quan chưa có sự phân định rõ về chức năng.
Chuyển sang giai đoạn sau, cùng với sự phát
triển đa dạng của các chức năng nhà nước nên bộ máy nhà nước chủ nô càng trở
nên cồng kềnh, quan liêu. Nhìn chung bộ máy nhà nước chủ nô đều có các cơ quan:
quân đội, cảnh sát, toà án phát triển.
Quân đội là lực lượng được các nhà nước chủ
nô quan tâm xây dựng. Trong các nhà nước quân đội chiếm lực lượng đông đảo.
Trong nhiều quốc gia mọi người dân đều có nghĩa vụ phải phục vụ quân đội (Nhà
nước Spác). Quân đội làm nhiệm vụ chủ yếu là chinh phạt và bảo vệ tổ quốc. Ở
những quốc gia chưa có lực lượng cảnh sát quân đội còn đảm nhận thêm nhiệm vụ
bảo đảm trật tự xã hội, hỗ trợ toà án trong việc điều tra.
Lực lượng cảnh sát là bộ phận được chú ý thứ
hai trong nhà nước chủ nô. Ngoài nhiệm vụ chủ yếu là gìn giữ trật tự xã hội,
cảnh sát còn đảm nhận nhiệm vụ hỗ trợ toà án trong việc điều tra, thậm chí cảnh
sát còn đảm nhiệm chức năng xét xử (ở La mã), hoặc bảo vệ các công trình công
cộng, các công trình tôn giáo như : (bảo vệ nhà thờ, các công trình thuỷ lợi ở
các nhà nước phương Đông cổ đại).
Toà án cũng được hết sức chú trọng trong nhà
nước chủ nô. Tuy nhiên cách tổ chức toà án ở các nhà nước khác nhau là khác
nhau. Ở các quốc gia Phương Đông, quyền xét xử tối cao thuộc về người đứng đầu
nhà nước (vua), quyền này có thể được uỷ quyền lại cho một tổ chức phụ thuộc
trực tiếp vào vua. Ở các quốc gia Phương Tây cổ đại, hệ thống cơ quan xét xử đã
được thiết lập để xét xử những công việc khác nhau, đồng thời đảm nhiệm chức
năng quản lý (Aten), hoặc có những cơ quan thường trực đảm trách hoạt động xét
xử với các thẩm phán được bầu trong một khoảng thời gian nhất định (La Mã thời
kỳ cộng hoà).
4. Hình thức nhà nước chủ nô
Mặc dù các nhà nước chủ nô đều có những chức
năng cơ bản giống nhau, nhưng do điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia là
khác nhau nên trong nhà nước chủ nô có nhiều hình thức chính thể khác nhau.
Lịch sử phát triển của nhà nước chủ nô gắn với các hình thức chính thể: quân
chủ, cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc.
Nô lệ cực khổ ở Châu Phi |
Chính thể quân chủ chuyên chế phổ biến trọng các nhà nước phương đông cổ
đại. Đặc trưng của hình thức này là quyền lực nhà nước tập trung toàn bộ vào
trong tay người đứng đầu nhà nước (hoàng đế, vua) với một bộ máy quân sự, quan
liêu khá phức tạp (Ai Cập, Babilon, Trung Quốc, Ấn Độ...). Người đứng đầu nhà
nước có toàn quyền quyết định vận mệnh
quốc gia, cũng như vận mệnh của từng thành viên trong quốc gia đó, chức vụ này
được truyền lại theo nguyên tắc cha truyền con nối.
Chính thể cộng hoà dân chủ tồn tại ở nhà nước chủ nô Aten vào thế kỷ thứ
V - IV trước công nguyên. Ở Aten mọi nam công dân trưởng thành đều được tham
gia Hội nghị nhân dân. Hội nghị sẽ bầu ra các cơ quan nhà nước và các cá nhân
thực thi quyền lực nhà nước theo những nhiệm kỳ nhất định. Nô lệ, kiều dân, phụ
nữ, nô lệ đã được giải phóng không được tham gia bầu cử, thực chất của hình
thức dân chủ này là dân chủ chủ nô.
Chính thể cộng hoà quý tộc chủ nô tồn tại ở nhà nước Spác và La Mã. Quyền lực
nhà nước (chủ yếu quyền lập pháp) nằm trong tay một hội đồng mà thành viên được
bầu ra từ các quý tộc giàu có nhất và họ
nắm giữ chức vụ suốt đời. Bên cạnh đó có các cơ quan thực hiện quyền hành pháp
và quyền tư pháp cũng được hình thành thông qua con đường bầu cử. Đại hội nhân
dân vẫn tồn tại nhưng không chiếm vị
trí quan trọng. Đại hội nhân dân chỉ tiến hành bầu những người tham gia vào các
chức vụ trong bộ máy nhà nước, thông qua về mặt hình thức các dự luật do Hội
đồng trưởng lão đưa ra.
Về hình thức cấu trúc nhà nước, tất cả các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc
nhà nước đơn nhất.
Về chế độ chính trị, ở các nước phương Đông chủ yếu tồn tại chế
độ độc tài chuyên chế. Ở các nước phương Tây, chế độ chính trị đã mang tính dân
chủ, tuy nhiên về bản chất đó chỉ là chế độ dân chủ chủ nô. Về cơ bả, nền dân
chủ được thiết lập ở những quốc gia này vẫn là chế độ quân phiệt, độc tài với
đại đa số nhân dân lao động./.
Tham khảo thêm:
-
- Phương pháp luận và nghiên cứu khoa học của lý luận
-
- Những quan điểm phi Mác xít về nguồn gốc của nhà nước
-
- Tìm hiểu về nguồn gốc của nhà nước
-
- Bản chất của nhà nước là gì?
-
- VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP
-
- Các kiểu nhà nước trong lịch sử
-
- Chức năng của nhà nước
-
- Hình thức nhà nước là gì?
-
- Bản chất tổ chức bộ máy và hình thức của nhà nước
-
- Sự ra đời bản chất và sự phát triển của nhà nước
-
- Chức năng của nhà nước tư sản trong lịch sử
-
- Tìm hiểu về tổ chức bộ máy nhà nước tư sản
-
- Hình thức nhà nước Tư sản trong lịch sử
-
- Tìm hiểu về sự ra đời của nhà nước Xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Quy luật phát triển của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về hình thức Nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Những chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về bộ máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa
-
- Các bộ phần cấu thành của Bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa
-
- Tìm hiểu về hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
-
- Vai trò của nhà nước trong hệ thống chinh trị xã hội
-
- Vị trí và vai trò của Đảng cộng sản trong hệ thống chính trị
-
- Tìm hiểu các các tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị
-
- Những vấn đề về đổi mới hệ thống chính trị
-
- Tìm hiểu về nguồn gốc của pháp luật
-
- Bản chất của pháp luật là gì?
-
- Tìm hiểu các thuộc tính của pháp luật
-
- Cùng tìm hiểu về các kiểu pháp luật
-
- Cùng tìm hiểu về các hình thức của pháp luật
-
- Cùng tìm hiểu về pháp luật chủ nô
-
- Tìm hiểu về pháp luật thời phong kiến
-
- Tìm hiểu về hình thức pháp luật tư sản
-
- Cùng tìm hiểu về bản chất pháp luật tư sản
0 comments:
Đăng nhận xét