Phòng ngừa là biện pháp được chú trọng trước tiên
Thực tiễn cho thấy,
nếu được thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa sẽ có tác dụng lớn trong việc
ngăn chặn ngay từ đầu những cơ hội, điều kiện để tham nhũng nảy sinh. Hay nói
theo cách khác, phòng ngừa chính là việc ngăn chặn, tiêu diệt tham nhũng từ
trong “trứng nước”. Do đó, những biện pháp này bao giờ cũng có hiệu quả to lớn,
dài lâu. Phòng ngừa tốt sẽ đẩy lùi những mầm họa của tham nhũng. Lịch sử chỉ
ra, giai đoạn thịnh trị chính là thời điểm các vương triều phong kiến thực hiện
có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa tệ tham nhũng. Không phải ngẫu nhiên mà
triều đại phong kiến lại đưa ra hàng loạt các giải pháp liên quan đến tuyển chọn,
đào tạo và sử dụng quan lại từ mặt tài năng cho đến đức độ đồng thời giáo dục
quan lại bằng cách tăng cường giáo huấn, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tham
nhũng... Tất cả những biện pháp đó đưa ra đều nhằm ngăn chặn những nguy cơ có
thể nảy sinh ra tham nhũng. Đấy là kinh nghiệm rất quý báu mà cha ông đã để lại.
Vì ngày nay, không chỉ Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều coi trọng các
giải pháp phòng ngừa tham nhũng vì cho rằng đây là những giải pháp tiết kiệm và
hiệu quả nhất.
Xa xưa, các vị
vua ý thức được để phòng ngừa hiệu quả, trước tiên cần đánh trực tiếp vào đối
tượng có thể tham nhũng, đó chính là đội ngũ quan lại. Nay, chúng ta biết mặc
dù phòng ngừa có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp, nhưng tiếp thu từ kinh
nghiệm của cha ông đi trước, chúng ta cũng rất ý thức được mục tiêu của giải
pháp phòng ngừa là làm cho mọi chủ thể trong xã hội, đặc biệt là những người thực
thi quyền lực công không thể tham nhũng,
không dám tham nhũng và không cần tham nhũng. Để đạt được mục tiêu này,
kinh nghiệm cho thấy, những cách thức được sử dụng phổ biến nhất trong lịch sử
của các triều đại phong kiến Việt Nam đó là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về
tham nhũng và phòng chống tham nhũng; chú trọng công tác tuyển chọn, giáo dục,
đào tạo và sử dụng đội ngũ quan lại; thực hiện chế độ lương bổng và đãi ngộ hợp
lý.
Tạo sự độc lập của cơ quan giám sát và việc thiết lập các vòng kiểm soát lẫn nhau
* Tính độc lập của cơ quan giám sát
Các cơ quan giám
sát thời phong kiến rất độc lập và được trao quyền hành rất lớn:
- Chế độ thanh
tra, giám sát thời Lê Thánh Tông là chế độ độc lập, có thể báo cáo vượt cấp. Ví
dụ, một quan Tri phủ mắc lỗi thì quan Hiến sát có quyền tâu hặc thẳng lên Ngự sử
Đài hoặc trực tiếp lên Bộ Hình, thậm chí lên cả vua, không cần thông qua Giám
sát Ngự sử. Triều đình sẽ cử ngay quan về điều tra, nếu quan Tri phủ có lỗi hoặc
vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Cả quan Đô Ngự sử cũng có thể bị người
khác tâu hặc nếu phạm lỗi.
Chế độ giám sát
giúp cho triều đình phát hiện sớm và chính xác các vụ việc tiêu cực, đánh giá lại
để kịp thời xử lý; đồng thời răn đe quan lại, để họ biết sợ pháp luật, phấn đấu
thành vị quan tài giỏi, đức hạnh.
- Tính độc lập của
cơ quan giám sát được tuyệt đối nhất là thời vua Minh Mạng. Ông quy định: Đô
sát viện có quyền kiểm tra các cơ quan khác nhau và đàn hặc rộng rãi, trên từ
hoàng thân, quốc thích, hoàng tử chư công, dưới đến bá quan văn võ. Đô sát viện
là cơ quan được tổ chức độc lập, không chịu sự kiểm soát của bất kỳ cơ quan nào
ở triêu đình trung ương. Đô sát viện chỉ chịu sự điều khiển trực tiếp của nhà
vua. Khi phát hiện các ngôn quan có quyền tâu thẳng lên vua. Ông nói: “Ngôn
quan là tai mắt của triều đình. Từ hoàng thân quốc thích cho đến trăm quan nếu
ai không giữ công bằng pháp luật, ngôn quan đều được quyền hặc tâu” [316]. Các
đoàn kinh lược đại sứ được ông trao cho quyền “tiền trảm, hậu tấu”, nghĩa là
thay mặt nhà vua giải quyết các công việc tại chỗ, sau đó mới phải báo cáo lại.
Chính quyền hành rộng rãi và tính độc lập này đã tạo nên uy quyền thực sự cho
các quan Ngự sự, giúp họ đánh giá xét xử quan lại khách quan đúng với công tội
của từng lại, quan.
Trong khi đó, hiện
nay hệ thống cơ quan thanh tra của nước ta vẫn hoạt động trong khuôn khổ bộ máy
của thủ trưởng, của lãnh đạo; pháp luật
về thanh tra chịu sự tác động rất lớn của các văn bản pháp luật quy định về tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy hành chính. Vì thế
với cơ chế này rất khó có thể kiểm tra giám sát, khách quan và độc lập được,
lúc này tính độc lập của hoạt động thanh tra chỉ là tương đối. Sự tác động của
hệ thống hành chính đến cơ quan thanh tra thể hiện ở những mặt sau:
- Cơ quan
thanh tra được xác định là cơ quan chuyên môn, là một bộ phận cấu thành của bộ
máy hành chính, cho nên cơ cấu, tổ chức của các các cơ quan trong bộ máy hành
chính thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về vị trí, cơ cấu, tổ chức của cơ quan
thanh tra. Vì vậy, các văn bản pháp luật về thanh tra phải quy định tổ chức
thanh tra phù hợp với các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính.
- Các cơ
quan thanh tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra trong phạm vi quản lý
nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Thông qua các văn bản pháp luật
về tổ chức bộ máy hành chính mà cơ quan thanh tra xác định được đối tượng và nội
dung thanh tra. Vì vậy, các văn bản pháp luật về thanh tra khi quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra; đối tượng, nội dung thanh tra phải phù hợp
với nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước cùng
cấp.
Sự tác động
này bắt nguồn từ mối quan hệ giữa thanh tra và quản lý nhà nước. Bởi vì đối tượng
thanh tra cũng là đối tượng quản lý, nội dung thanh tra phụ thuộc vào nội dung
quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước. Cho nên đối tượng, nội dung thanh tra
rộng hay hẹp phụ thuộc vào nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy
hành chính nhà nước. Thanh tra nhà nước các cấp, thanh tra ngành, lĩnh vực đều
là cơ quan của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, giúp thủ trưởng cơ quan quản
lý nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ do luật định. Do vậy, dù muốn hay
không thì Thanh tra phải chịu sự chi phối, chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan quản
lý. Trong hoạt động thanh tra, về nguyên tắc, người có trách nhiệm, người quyết
định cuối cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra vẫn là thủ trưởng cơ quan quản
lý hành chính nhà nước.
* Thiết lập 2 vòng kiểm soát hành pháp
Nguyên tắc hoạt
động của cơ quan giám sát là: “Tất cả đều liên quan đến nhau”, để “không có người
ăn hại mà trách nhiệm lại có nới quy kết, khiến cho quan to, quan nhỏ đều ràng
buộc với nhau, chức trọng, chức khinh cùng kiềm chế nhau. Uy quyền không bị lạm
dụng, thế nước vậy là khó lay. Hình thành thói quen giữ đạo lý, theo pháp luật
mà dứt bỏ tội lỗi khinh nhân nghĩa, phạm ngục hình...” [6,454-455].
Ví như thời Hồng
Đức, ở trung ương, ngoài bộ Hình giữ chức năng tư pháp thì 5 bộ còn lại hợp
thành hệ thống cơ quan hành pháp ở trung ương. Các bộ này vừa bị kiểm soát bởi
các Khoa, lại vừa chịu sự kiếm soát của Ngự sử đài; ở địa phương, các chức tham
chính, tham nghị quản lý công việc hành chính trong toàn đạo, các cơ quan này
chịu sự kiểm soát của Hiến sát sứ Ty và các quan Giám sát Ngự sử ở đạo. Mục
đích kiểm soát toàn bộ hệ thống quan lại của vua Lê Thánh Tông là khá rõ ràng,
có tính chất nhất quán. Nó giúp vua vẫn đảm bảo được việc kiểm soát trong khi
không nhất thiết phải cáng đáng mọi công việc của triều đình. Nhờ có cơ chế kiểm
soát quyền lực đó mà nhà vua có thể yến tâm trao quyền cho bề dưới, không sợ
quyền lực trao quá nhiều khiến bề tôi có cơ hội lạm quyền, hoặc quyền lực trao
quá ít khiến cho bề tôi không thể hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao
phó.
Cụ thể, triều đình quy định rõ về quyền hạn, trách nhiệm của
từng chức quan đồng thời nhấn mạnh yêu cầu quan lại tự giám sát lẫn nhau. Mỗi bộ
phận phụ trách một việc, các bộ chịu sự giám sát của các khoa, công việc của
các Đạo do các hiến ty giám sát, các quan lại chịu sự giám sát lẫn nhau, quan
trên giám sát quan dưới. Lê Thánh Tông cho lập các quan phụ trách việc giám
sát, kết hợp giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát đột xuất. Lấy chất lượng
công việc để đánh giá năng lực quan lại; công việc bê trễ, sai sót thì có thể bị
phạt.
Hiện nay, hệ thống hành pháp chỉ bị kiểm soát bởi một vòng quyền lực đó là
hệ thống thanh tra (các hình thức giám sát của cơ quan quyền lực, và các phương
thức kiểm soát từ bên ngoài được xem xét với tính chất khác), nhưng lại có mối
quan hệ đồng cấp, cùng thuộc một cơ quan quản lý nhà nước chung (ví như thanh
tra tỉnh với các Sở của UBND cấp tỉnh), cho nên rất khó để có thể kiểm soát tốt
nếu như cơ quan thanh tra không được hoạt đông độc lập. Vì việc thiết lập cơ chế
kiểm soát vòng trong vòng ngoài như các triều đại phong kiến sẽ hạn chế được
tính bất cập của cơ chế một vòng khi có các kẽ hở pháp luật, cũng như có sự
ràng buộc về tổ chức giữa các cơ quan. Vòng trong vẫn là vòng kiểm soát chính,
vòng ngoài nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn những kẽ hở mà vòng trong chưa kiểm soát
hết mà cũng tạo ra một cơ chế để kiểm soát chính các cơ quan giám sát, các
“ngôn quan” (Đô ngự sử đài
xét không công bằng thì cho phép Lục Khoa đàn hặc để trị tội)
Rõ ràng, chính
hai yếu tố này đã mở rộng thêm quyền cho cơ quan giám sát thời bấy giờ, giúp
cho người đứng đầu các cơ quan này chỉ hoạt động theo luật pháp, không bị chi
phối bởi bất cứ hoạt động của của ai khác. Bên cạnh đó để tránh tình trạng lạm
quyền do được giao quyền hành lớn, nhà nước phong kiến kiểm soát rất chặt chẽ
quyền lực hành pháp thông qua vai trò chính yếu của hệ thống cơ quan giám sát từ
trung ương đến địa phương.
0 comments:
Đăng nhận xét